Tên di sản : Chùa Bạch Tượng
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3837/QĐ-UBND
Giới thiệu
Chùa Bạch Tượng nằm ở phía Đông dãy núi đá vôi Thiết Giáp. Ngoài ý nghĩa là di tích lịch sử văn hóa truyền thống, vị trí ngôi chùa lại là nơi phong cảnh hữu tình, từ xa nhìn vào, mái chùa ẩn hiện giữa những hàng cây cổ thụ dựa vào cách đá cao chót vót, tiếng hót thanh thoát của các loài chim từ trên cao vọng lại, như gột rửa tâm hồn đưa con người vào chốn Bồng lai. Cách Động Từ Thức xã Nga Thiện theo đường chim bay khoảng 600m, khu vực chùa Bạch Tượng cũng có cấu trúc địa lý giống như Động Từ Thức, bên những vách đá sau chùa ẩn hiện hàng chục hang động ăn sâu vào lòng núi tạo thành những phong cảnh trữ tình dễ làm nao lòng du khách.
Là địa đầu của tỉnh Thanh Hóa, có vị trí vừa là tụ điểm vừa là sự tiếp nối giao lưu giữa miền Bắc và miền Trung, nên từ lâu trong lịch sử ở vùng Nga Sơn đã có một nền văn hóa mang nhiều sắc thái. Đặc trưng địa lý - văn hóa ảnh hưởng khá rõ trong căn tính, dáng dấp, giọng nói của người Nga Sơn, vừa có cái nết na của dân cư đồng bằng Bắc Bộ, lại vừa có cái chất phác của người xứ Thanh. Lễ hội là một trong những họat động văn hóa tinh thần của người Nga Sơn từ xưa đến nay. Vào dịp xuân về, vùng Nga Sơn có nhiều lễ hội truyền thống. Trong những ngày hội, trai gái trao gởi cho nhau những lời ca tiếng hát, những câu hò trữ tình ca ngợi quê hương và tình yêu đôi lứa. Chính chàng Từ Thức người Cẩm La huyện Tống Sơn làm tri huyện ở Tiên Du, vì đi dự hội Mẫu Đơn nên mới gặp Tiên nữ Giáng Hương ở động Bích Đào. Trong tập “Thanh Hóa quan phong” của Tổng đốc Vương Duy Trinh, một văn nhân thời Nguyễn, đã mô tả phần nào không khí tấp nập và tính nhân văn của lễ hội ở Nga Sơn xưa.
Trước cảnh non nước hữu tình, hang động kỳ thú, cư dân Nga Sơn đã xây dựng nên những công trình văn hóa mang tính đặc thù riêng biệt, phù hợp với phong cảnh nhân văn và phong cảnh địa lý riêng của địa phương. Chùa Bạch Tượng được tôn tạo lại trên nền chùa cũ vào năm Duy Tân (1910) trong phong cách đặc trưng của một ngôi chùa của cùng th��ng tích này.
Chùa Bạch Tượng được Xây dựng thành 3 hạng mục nhưng liên kết với nhau thành một khối nối liền, tất cả tam quan, chùa chính, Phật điện đều được xây dựng cuốn vòm theo kiểu vô băng, trên mái được lợp ngói.
Tam quan: Được xây dựng theo thức kiến trúc Đụn, Các, Tháp, kiến trúc dài 11m, rộng 2,3m, đỉnh phật môn cao nhất 5,8m. Tam quan được cuốn vòm, chia làm 3 cửa thông với chùa chính 2 tầng. Tiếng ba Tam Quan cùng được chia thành 3 các nhỏ, mỗi các đều có 4 mái cong, trên mái lợp ngói. Các ở giữa cao nhất tới 5,8m tượng trưng cho Phật môn, mặt ngoài tầng 3 các giữa được soi giờ chỉ thành khuôn giữa khuôn được đắp hai chữ, thượng phương, tức là cõi Phật. Hai các bên có kích thước bằng nhau, nhỏ và thấp hơn các chính giữa và cũng được soi khuôn, trong khuôn được đắp tả cảnh xuân hoa, tiếc rằng do ở ngoài trời cho nên nét đắp đã bị vỡ phần nhiều, hai các nhỏ hai bên tượng trưng cho Phật môn và tăng môn. Tầng 2 của Tam quan được thể hiện 2 cửa cuốn vòm, ngăn cách giữa 3 vòm cửa và hai đầu hồi được thể hiện khuôn soi gờ đắp cảnh, mai, cúc, trúc, trước 3 cửa cuốn tầng 2 được chạy hàng lan can con tiện.
Tầng dưới cùng được cuốn vòm 3 cửa Phật, Pháp, tăng bên ngoài không có cánh cửa.
Tiền đường: Tiền đường được nối giáp với Tam quan, bằng hệ thống 3 cửa thông được ngăn cách bằng 3 chuồng cửa gỗ kiểu trung song, thượng, hạ bản. Chùa có kích thước dài 1m, rộng 4m, cao 5,3m, cũng được xây theo kiểu vòm cuốn, trên mái dán ngói. Tiền đường cũng được phân giả định thành 3 gian. Gian giữa để thông với Phật điện bằng hệ thống cửa cuốn thông gian, giữa cửa đặt một hương án thờ cộng đồng, 2 bên cửa hậu có đôi câu đối đắp nổi.
Phật đường: Liên kết với tiền đường bằng cửa thông gian, kết cấu với tiền đường theo kiểu kiến trúc hình chữ Đinh, Phật đường có kích thước dài 7,5m, rộng 3,5m, Phật điện cũng được xây cuốn vòm, trên mái lợp ngói. Chạy dọc theo Phật được xây bệ tam cấp thờ 12 pho tượng Phật cổ, gồm 3 vị Tam Thế, 1 pho Ngọc Hoàng, 2 pho yết Đế, 3 pho Bồ Tát, Anan, 1 pho Thích Ca trong tòa Cửu Long và 1 pho Nam Tào, 1 pho Bắc Đẩu. Các đồ thờ trên Phật điện như Lư hương, Mâm bồng, Ống hương... đều là những cổ vật có giá trị.
Nhà thờ Thánh Minh: Được xây dựng nối thẳng hàng với Tiền đường, cấu trúc kiểu chữ L, chuôi vồ cuốn vòm, tường bao còn nguyên, bộ mái mới làm lại. Tiền đường nhà thờ Thánh Minh (Đức Thánh Trần) có kích thước 8m x 4m, Hậu cung 4 x 3m. Ngoài Tiền đường gian giữa để hương án thờ hội đồng các quan, hai gian bên có bàn thờ tả hữu bộ Hộ Vệ, Hậu cung đặt hai long ngai, long ngai trước đặt lư hương, long ngai sau đặt Thánh vị và chiếc mũ thờ bằng da.
Gian bên tả ngoài tiền đường của Chùa đặt 1 chiếc hòm gian bằng gỗ rất lớn, bên trong cất nhiều loại cổ vật chất liệu bằng đồng, chỉ khi nào lễ hội và dịp tết, chùa mới đem ra bày để hành lễ, và mời thập phương thưởng ngoạn.
Nhà thờ Tổ: Do ảnh hưởng của khí hậu, năm 2003 nhà thờ tổ bị sập mái, nhân dân địa phương mới xây dựng tạm ngôi nhà cấp 4 trên nền cũ. Nối giáp hồi với nhà thờ Thánh Minh kiến trúc có kích thước 5,5m x 4m.
Nhà thờ tổ có đặt 3 hương án thờ, mỗi hương án đều được bày lư hương, ống hương, đài riệu.
Những đồ thờ như hương án, ống hương, đài riệu chất liệu bằng gỗ đều có niên đại thế kỉ XIX.
Bên tả nhà thờ có chiếc hòm gian đựng bát, đĩa, mâm cổ có giá trị, số lượng gồm 90 hiện vật
Phủ Mẫu: Nằm dựa sườn núi, trước khi vào chùa. Cũng như nhà thờ Tổ, Phủ Mẫu mới được tôn tạo lại trên nền cũ vào năm 2003. Phủ Mẫu cung ngoài gồm 3 gian, có chuôi vồ nh��� là cung trong thờ tứ vị Thánh Nương, những pho tượng Mẫu Thiên, Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn có kích thước nhỏ mới được cung tiến. Cung Tiền đường đặt hương án cộng đồng, các đ��� thờ bằng gỗ như cây nến, ống hương, bàn kinh đều có niên đại thế kỉ XIX. Đáng lưu tâm là cạnh Phủ Mẫu có tấm Ma Nhai khắc trên vách đá. Nhưng do sự thiếu ý thức của một thời, đá sỏi ném lên, tấm Ma Nhai không còn dịch đúng nghĩa được.
Với những công trình kiến trúc cổ có kim có, với phong cảnh hữu tình của chùa Bạch Tượng và chứng tích bằng hàng trăm cổ vật đang còn lưu giữ tại chùa, chùa Bạch Tượng đã là địa chỉ sinh hoạt văn hóa tâm linh và văn hóa tinh thần của cư dân Xã Nga Giáp từ xưa đến nay.
Các hiện vật trong di tích:
Chùa Bạch Tượng xã Nga Giáp - huyện Nga Sơn có lẽ là một di tích còn giữ được số lượng cổ vật đứng vào hàng đầu trong các di tích lịch sử văn hóa ở Thanh Hóa. Không kể những cổ vật đã hị thất lạc, tại chùa Bạch Tượng còn lưu giữ 181 hiện vật, trong đó có trên 150 cổ vật có giá trị. Đặc biệt chùa còn giữ được số lượng cổ vật chất liệu đồng có giá trị, đáng chú ý nhất là đôi chân nến có kích thước cao 1,5m, tán rộng 0,60m. Số hiện vật trong chùa Bạch Tượng được thống kê như sau:
Khu vực Tiền đường và Phật điện:
Hương án: 1 cổ
Tượng thờ: 16 cổ
Long Khám: 2 cổ
Mâm bồng: 4 cổ
Ống hương: 8 cổ
Đồ đồng cất giữ dùng khi hành lễ
Chân nến đồng lớn cao 1,5m: 2 cây cổ
Chân nến đền trung
Lư hương lớn
Lư hương loại trung
Đỉnh đồng
Hạc đồng: 1 con
Đài, chén bằng đồng: 17 chiếc
Khánh đồng: 2 chiếc
Chuông đồng loại nhỏ: 1 quả 7
Đồ sứ dùng khi hành lễ:
Bát hương cổ: 10 bát cổ
Bát nội phủ thế kỉ VIII: 20 chiếc
Bình vôi sứ thế kỉ XVI Tam thái: 1 bình
Bình vôi sánh: 2 bình cổ
Tổng cộng chùa Bạch Tượng hiện lưu giữ 181 hiện vật. Trong đó còn trên 150 cổ vật có giá trị, rất cần thiết phải có chế độ bảo quản số cổ vật này. Rất tiếc tại chùa còn có hai tấm bia hậu được khắc 1 mặt cao 90cm, rộng 51m, nhưng do nhận thức của một thời nên đem 2 tấm bia ra đập lúa tại sân kho của hợp tác xã nên chữ bị mờ nét chỉ còn chữ trên trán bia. Theo các cụ kể lại 1 tấm bia ghi việc trùng tu chùa vào năm Canh Tuất thời Duy Tân, 1 tấm bia ghi lại việc gia đình Ông Cửu phẩm văn giai họ Nguyễn công đức cho chùa 2 mẫu ruộng. Cạnh phủ Mẫu trên vách núi cao 3m so với mặt đất còn tấm ma nhai, nét chữ bị phong hóa cũng chưa dịch chính xác được nội dung của tấm bia.
Với kiến trúc độc đáo của ngôi chùa, với số lượng cổ vật đồ sộ còn lưu giữ tại chùa, chùa Bạch Tượng xứng đáng là di tích lịch sử văn hóa.